Thực hư nợ xấu Việt Nam
Thực hư nợ xấu Việt Nam
Tại sao các số liệu nợ xấu công bố thời gian qua không đồng nhất?. Thực hư như thế nào?. Các băn khoăn này đã được ông Nguyễn Xuân Thành, Giám đốc Chính sách công - Chương trình giảng dạy kinh tế Fullbright lý giải.
Tại buổi giao lưu trực tuyến “Từ nợ xấu, phá sản đến hy vọng phục hồi” do Vneconomy tổ chức chiều ngày 09/07, ông Nguyễn Xuân Thành cho biết, hiện nay, Việt Nam có nhiều nguồn thông tin về nợ xấu. Nguồn thông tin chính thức nhất là số liệu do Ngân hàng Nhà nước công bố dựa trên việc tổng hợp số liệu báo cáo của từng tổ chức tín dụng. Con số này vào cuối tháng 4 là 4.14% dư nợ, khoảng 108,600 tỷ đồng. Con số này cũng khớp với số liệu nợ xấu (nợ nhóm 3-5 được thể hiện trong nội dung thuyết minh báo cáo tài chính của các tổ chức tín dụng).
Số liệu Fitch đưa ra thường gấp 3 lần số con số chính thức.
Đối với dư nợ cho vay bất động sản cũng có các số liệu khác nhau. Đó là do cách phân loại con số dư nợ bất động sản thấp nhất khớp với việc các ngân hàng báo cáo dư nợ cho vay bất động sản theo lĩnh vực cho vay các hoạt động cho vay tài sản, và do vậy chỉ bao gồm cho vay đối với các công ty bất động sản và không bao gồm cho vay cá nhân.
Ngay cả con số lớn hơn cũng không tính hết các khoản cho vay bất động sản vì có nhiều khoản cho vay thực chất là dùng để đầu tư bất động sản nhưng được phân loại vào các lĩnh vực khác. Còn nếu tính các khoản cho vay được bảo đảm bằng bất động sản thì con số này sẽ lên trên 50% tổng dư nợ tín dụng.
Theo quan điểm của ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại, thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách tài chính tiền tệ Quốc gia thì nợ xấu ở Việt Nam tăng là do các nguyên nhân: Thứ nhất là Chính phủ quản lý lỏng lẻo. Thứ hai là các tổ chức tín dụng tham lam (mở rộng cho vay, tăng tín dụng để tăng lợi nhuận, có nhiều khoản vay không đảm bảo thu hồi chắc chắn); các doanh nghiệp không có phương án sản xuất, kinh doanh tốt để có khả năng đảm bảo trả nợ (trong đó có nhiều khoản đầu tư của doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả, không trả được nợ). Và thứ ba là do cơ chế giám sát thiếu chặt chẽ để nợ xấu phát sinh lớn mà không có giải pháp ngăn chặn sớm. Từ ba nguyên nhân đấy thì 3 chủ thể phải chịu trách nhiệm: Nhà nước, doanh nghiệp và ngân hàng.
Trước hết nói về ngân hàng và doanh nghiệp. Ngân hàng phải trích lập đủ các khoản dự phòng rủi ro để xử lý phần nợ xấu. Doanh nghiệp phải dùng tài sản thế chấp để trả nợ cho ngân hàng, như vậy họ cũng bị thiệt. Vì giá tài sản thế chấp đã xuống thấp.
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, có đến 86% các khoản vay là có tài sản bảo đảm và giá trị tài sản bằng 135% giá trị nợ xấu. Như vậy, nếu dùng quỹ dự phòng rủi ro và xử lý số tài sản bảo đảm này thì hoàn toàn có thể xử lý số nợ xấu mà Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho rằng chiếm 10% dư nợ.
Nói thêm về nguyên nhân phát sinh nợ xấu, ông Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế cao cấp cho biết, nợ xấu có nguyên nhân từ biến động thị trường nhưng cũng có nguyên nhân từ sai lầm trong đầu tư trong kinh doanh. Cần phân loại các loại nợ xấu và phân loại các doanh nghiệp để có phương án xử lý nợ xấu một cách thích hợp. Về nguyên tắc chỉ có thể xử lý những khoản nợ xấu nào của những doanh nghiệp còn có khả năng cứu được.
Ông Doanh cho rằng một số khoản nợ xấu của những doanh nghiệp, cả doanh nghiệp nhà nước lẫn doanh nghiệp tư nhân thiếu những tố chất cơ bản thì không thể có biện pháp giải cứu. Những doanh nghiệp đó phải chấp nhận phá sản. Và phá sản trong kinh tế thị trường là một sự “tàn phá sáng tạo”. Sẽ có một nhà đầu tư mới mua lại nhà xưởng thiết bị và xây dựng một doanh nghiệp hoàn toàn mới. Đó là quy luật đào thải của kinh tế thị trường.
Trong khi đó, ông Đỗ Minh Phú, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn Vàng bạc đá quý Doji, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Tiên Phong (TienPhongBank) bổ sung, nguyên nhân chủ quan của nợ xấu là do các doanh nghiệp Việt Nam có sức đề kháng yếu khi tình hình kinh tế thay đổi. Do quản trị yếu, hàng hóa thiếu cạnh tranh nên tự doanh nghiệp không thể duy trì được sức tiêu thụ tốt đối với hàng hóa của mình. Có rất nhiều doanh nghiệp không trả được các khoản vay ngân hàng.
Minh chứng cho điều này, ông Phú cho rằng vài năm trở lại đây, mức tăng trưởng tín dụng khá cao, thậm chí có năm tăng trưởng tín dụng đạt tới xấp xủ 30%, các doanh nghiệp sử dụng vốn khá dễ dãi, không hiệu quả. Đặc biệt, đối với lĩnh vực bất động sản trầm lắng đóng băng, một lượng vốn khổng lồ đã bị chôn vào các dự án. Có những giai đoạn lãi suất ngân hàng cho vay ở mức quá cao, doanh nghiệp không thể tiếp cận được với những nguồn vốn có chi phí lớn như vậy. Vì vậy, khả năng hấp thụ vốn của thị trường rất kém.
Khi các doanh nghiệp không trả được nợ, hệ số tín nhiệm đối với họ bị đánh tụt nên các ngân hàng tỏ ra ngần ngại khi tiếp tục bơm vốn. Dòng xoáy này làm cho doanh nghiệp gần như “thúc thủ”.
Theo quy định của ngân hàng, với những khoản nợ vay quá 90 ngày và khả năng trả nợ cả gốc cả lãi bị nghi ngờ thì bị xếp vào loại nợ xấu. Lượng tồn kho lớn, doanh nghiệp không bán được hàng, không thu được tiền để trả các khoản nợ cũ và sẽ bị xếp vào nhóm nợ xấu theo tiêu chuẩn như trên.
Như Ý (vietstock)
FFN