Học được gì từ Danaharta - Mô hình AMC thành công của Malaysia

07/05/2013 17:46
07-05-2013 17:46:50+07:00

Học được gì từ Danaharta - Mô hình AMC thành công của Malaysia

Trong khi giá trị hồi phục (recovery value) của các AMC nằm trong khoảng từ 20-50% thì các khoản nợ xấu của Danahara có giá trị hồi phục đến 58%. Với việc sắp cho ra đời một công ty AMC, Việt Nam có thể tham khảo được nhiều kinh nghiệm từ thành công của Malaysia.

Trong bài viết về kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Malaysia trước, chúng ta đã biết đến sự thành công của Danaharta - công ty AMC của Malaysia. Danaharta với thời gian hoạt động 7 năm (1998-2005) đã đạt được những kết quả ấn tượng và nổi trội so với các AMC của Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan. Trong khi giá trị hồi phục (recovery value) của các AMC nằm trong khoảng từ 20-50% thì các khoản nợ xấu của Danahara có giá trị hồi phục đến 58%. Với việc sắp cho ra đời một công ty AMC, Việt Nam có thể tham khảo được nhiều kinh nghiệm từ thành công của Malaysia.

Khủng hoảng kinh tế Châu Á năm 1997 đã ảnh hưởng trầm trọng đến nền kinh tế các quốc gia Đông Nam Á. Khi đó, đồng Ringgit mất đến 50% giá trị, niềm tin tiêu dùng suy giảm trầm trọng. Nếu như các khoản nợ xấu tại thời kỳ ngay trước khủng hoảng dao động từ 2-3% thì khi bong bóng vỡ ra, tỷ lệ nợ xấu tăng lên hai con số, đỉnh điểm vào tháng 8/1998 khi nợ xấu lên đến 11.4%.

Đối mặt với khủng hoảng kinh tế, Chính phủ Malaysia buộc phải lập ra 3 tổ chức để giảm nợ xấu, lành mạnh hệ thống tài chính và khôi phục lại đà tăng trưởng: Danaharta để xử lý nợ xấu, CDRC để thỏa thuận với các ngân hàng có nợ xấu, SPV để bơm vốn cho hệ thống tài chính. Trong đó Danahara là trung tâm của kế hoạch.

Mô hình của Danaharta

Trên thế giới luôn tồn tại hai mô hình xử lý nợ xấu: một là mua đứt nợ xấu và xử lý nhanh; hai là mua lại nợ xấu và để chúng tự hồi phục.

Mô hình mà Danahara lựa chọn là sự kết hợp của cả hai cách xử lý nợ xấu trên và nó đã chứng minh rằng đây là mô hình rất phù hợp với điều kiện kinh tế của quốc gia này.

Khung pháp lý

Một yếu tố đóng vai trò rất quan trọng giúp cho Danaharta thành công đó là bởi nó được sự hậu thuẫn đặc biệt từ chính quyền Malaysia. Vào tháng 8/1998, Luật Danaharta ra đời đem lại bộ khung pháp lý rất đặc biệt cho tổ chức này. Đạo luật này cho phép Danaharta những đặc quyền mà không một tổ chức tài chính nào có thể có được trong lịch sử ngành tài chính quốc gia, đó là:

- Mua lại tài sản của các tổ chức tài chính

- Bổ nhiệm lãnh đạo ở các tổ chức đang nợ

- Có quyền tịch biên những tài sản thế chấp

Với những ưu tiên này, Danaharta có thể vừa thực hiện cách tiếp cận mềm mỏng cũng như cứng rắn trong việc xử lý nợ xấu. Thông thường, cách tiếp cận mềm mỏng như cơ cấu lại nợ, thỏa thuận dàn xếp lại nợ được ưa thích hơn và cũng đem lại hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên trong một số trường hợp do người vay không thể duy trì khả năng trả nợ, Danaharta được phép sử dụng những đặc quyền mà Luật Danaharta đã đề ra.

Nợ trên 5 triệu mới được xử lý

Với tỷ lệ nợ xấu lên 11.4% vào tháng 8/1998, nhiệm vụ của Danaharta là đưa tỷ lệ nợ xấu về dưới 10%. Tuy nhiên AMC này không thể xử lý tất cả nợ xấu đang tồn đọng, vì vậy Danaharta đặt ra mục tiêu chỉ mua những khoản nợ xấu trên 5 triệu Ringgit, tức là gần 70% tổng nợ xấu trong hệ thống tài chính. Điều này tương đương với khoảng từ 2,000 đến 3,000 khoản nợ xấu, một con số khả thi với năng lực xử lý của Danaharta trong thời gian 5 năm.

Đặt giá mua cho nợ xấu

Về hình thức, Danaharta mua bán nợ với các tổ chức tài chính theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, với bản chất là một cơ quan của Nhà nước nhằm mục đích xử lý nợ xấu nên Danaharta đặt ra một cơ chế xác định giá các khoản nợ:

1. Nợ có đảm bảo: Giá mua được xác định dựa vào giá trị hợp lý (FV) của tài sản thế chấp. Danaharta chỉ chấp nhận các tài sản tài chính là cổ phiếu và bất động sản.

Đối với nợ xấu có tài sản thế chấp là bất động sản (BĐS), FV được tính là 95% giá trị thị trường của BĐS và được xác định bởi tổ chức định giá độc lập và được cấp phép.

Với cổ phiếu niêm yết, giá trị hợp lý phụ thuộc vào khối lượng nắm giữ.

Khi FV cao hơn hoặc bằng với dư nợ gốc cộng nợ lãi, Danaharta mua theo giá của nợ gốc cộng nợ lãi. Còn giá trị hợp lý thấp hơn giá trị của tổng nợ gốc và lãi nhưng cao hơn hoặc bằng giá trị nợ gốc, giá mua là giá trị hợp lý. Nhưng nếu giá trị hợp lý thấp hơn giá trị nợ gốc, giá mua sẽ là giá trị nợ gốc nhưng Danaharta chỉ trả trước một khoản bằng với FV.

Kịch bản

Giá mua lại

FV >= Nợ gốc + Nợ lãi

Nợ gốc + Nợ lãi

Nợ gốc =< FV < Nợ gốc + Nợ lãi

FV

FV < Nợ gốc

Nợ gốc nhưng chỉ trả trước FV

2. Nợ không có đảm bảo: Giá mua được xác định bằng 10% giá trị dư nợ gốc.

3. Các khoản siêu nợ: Là các khoản nợ trên 200 triệu Ringgit và hầu như không có khoản nợ nào được Danaharta mua lại.

Có thể thấy, cách xác định giá trên rất cụ thể và đơn giản nhưng trong nhiều tình huống các tổ chức tài chính có thể không muốn bán nợ xấu. Họ sẽ nhận ra rằng Danaharta không mua lại nợ ở mệnh giá và sẽ chỉ mua ở giá chiết khấu. Để giải quyết vấn đề này, Danaharta đưa ra một cơ chế. Danaharta đề nghị mức chia sẻ các khoản thặng dư từ nợ xấu hồi phục là 80%:20%, áp dụng cho cả nợ đảm bảo và không đảm bảo.

Trong vòng 5 năm, các tổ chức tài chính được phép trích lập khoản chênh lệch phát sinh từ bán nợ xấu. Trong trường hợp các tổ chức này từ chối đề nghị mua nợ của Danaharta thì họ bị buộc phải ghi giảm 80% giá trị các khoản nợ xấu trên BCTC ngay lập tức. Ngoài ra, đối với mỗi khoản nợ, Danaharta sẽ chỉ gửi đề nghị một lần để tránh làm mất thời gian.

Thực tế của việc xử lý nợ

Nguồn vốn

Khi mới đi vào hoạt động, Chính phủ Malaysia cấp cho Danaharta 3 tỷ Ringgit làm vốn, phần còn lại sẽ phải tự đi huy động. Theo ước tính ban đầu, Danaharta cần đến 25 tỷ Ringgit để xử lý nợ xấu và chủ yếu phải dựa vào phát hành trái phiếu. Tuy nhiên, trong thực tế, Danaharta chỉ cần 13 tỷ Ringgit.

Ngoài phát hành trái phiếu lấy tiền, Danaharta còn tiến hành phát hành trái phiếu trực tiếp cho các ngân hàng để đổi lấy các khoản nợ xấu. Loại trái phiếu được phát hành là Zero-coupon, không phải trả lãi định kỳ nhưng vẫn có thể phải trả lãi khi đáo hạn.

Lợi ích với Danaharta:

- Trái phiếu Zero-coupon không phải trả lãi nên Danaharta không chịu áp lực trả nợ ngắn hạn.

- Phát hành trái phiếu một cách từ từ làm cho Danaharta chỉ vay tiền khi cần thiết và tận dụng lãi suất có thế giảm.

Với các ngân hàng:

- Hoán đổi nợ xấu không tạo ra thu nhập với trái phiếu được Chính phủ bảo đảm sẽ làm bảng cân đối kế toán lành mạnh hơn.

- Các chỉ số an toàn tài chính cải thiện.

Từ tháng 10/1998 đến tháng 3/2000, đã có 15 lượt trái phiếu được phát hành với mức lãi suất giảm dần từ 7.15%/năm xuống còn 5.165%. Danaharta huy động được 8.22 tỷ Ringgit từ trái phiếu.

Quản lý nợ

Danaharta ưu tiên mua bán nợ xấu dựa trên mức độ nghiêm trọng của tổ chức tài chính. Các tổ chức tài chính được xếp thành bốn hạng, hạng 1 là tổ chức tài chính với tỷ lệ nợ xấu cao và nhiều khả năng phải bán nợ và hạng 4 là tổ chức có ít khả năng bán nợ xấu nhất.

Thông thường, Danaharta sẽ xác định giá và gửi đề nghị đến các ngân hàng hay công ty tài chính. Sau đó, các khoản nợ xấu này được mua và nằm dưới danh mục “Nợ mua lại”.

Tuy vậy trong cuộc khủng hoảng tài chính 1997, nhiều khoản nợ xấu đã đến từ hai tổ chức tài chính thuộc nhóm quốc doanh là Sime Bank Group và BBMB Group. Để xử lý các khoản này, Danaharta phát hành trái phiếu để đổi lấy nợ, gọi là “Nợ được ủy thác”.

Bảng sau thể hiện các đặc tính của nợ xấu mua và nợ xấu quản lý:

Đặc điểm                               

Nợ xấu mua

Nợ xấu quản lý

Từ đâu

Mua trên cơ sở đồng thuận mua bán

Cắt từ nợ xấu của Sime, BBMB

Giá mua

8.94, chiết khấu 54.6% của 19.71 tỷ Ringgit

Không bỏ ra chi phí vì nợ xấu thuộc về BNM (Ngân hàng Trung Ương Malaysia) và Chính phủ

Cơ chế thanh toán

Tiền và trái phiếu

Không chi trả gì cả

Phân chia thặng dư

Thỏa thuận

Không thỏa thuận, nhưng nhận phí  quản lý

Cách thức quản lý

Cùng cách quản lý, mục tiêu tối đa hóa giá trị phục hồi nợ xấu

Với những đặc điểm trên, Danaharta đã góp phần vào thành công của Chính phủ Malaysia trong việc xử lý nợ xấu, đưa tỷ lệ nợ xấu về ngưỡng an toàn. Sau khi Danaharta kết thúc hoạt động, nền kinh tế Malaysia đã tăng trưởng trở lại và ngay cả trong khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua, Malaysia vẫn tỏ ra vững vàng và là một điểm sáng trong bức tranh kinh tế ảm đạm.

Anh Danh (Vietstock)

FFN







MÃ CHỨNG KHOÁN LIÊN QUAN (1)

TIN CÙNG CHUYÊN MỤC

Các ngân hàng trung ương châu Á chật vật 'chế ngự' đô la

Các ngân hàng trung ương châu Á đang chuẩn bị ứng phó nhiều bất ổn hơn từ sự trỗi dậy của đồng đô la Mỹ khi triển vọng giảm lãi suất không chắc chắn của Mỹ trong...

Đợt tăng vốn lớn nhất cho Ngân hàng Thế giới kể từ năm 2022

Phần lớn khoản cam kết tài trợ mới nhất, khoảng 9 tỷ USD, là của Mỹ dành cho Nền tảng bảo lãnh danh mục đầu tư mới, giúp hỗ trợ các khoản vay tư nhân và đầu tư vốn...

Doanh nghiệp Trung Quốc tăng cường tích trữ đô la

Các doanh nghiệp Trung Quốc đang tăng cường tích trữ đô la Mỹ khi họ dự đoán đồng nhân dân tệ (NDT) sẽ mất giá hơn nữa. Thực trạng này càng làm trầm trọng thêm đà...

Bê bối tài chính Wirecard: Kiểm toán EY rất cẩu thả

Theo các nguồn thạo tin liên quan tới cuộc điều tra, cơ quan giám sát kiểm toán Đức (Apas) nhận định hoạt động kiểm toán của EY đối với công ty thanh toán Wirecard...

Nội tệ mất giá, Hàn Quốc phát cảnh báo hiếm thấy

Chính phủ Hàn Quốc đưa ra cảnh báo hiếm hoi đối với những người tham gia thị trường ngoại hối sau khi đồng won nhanh chóng chạm mốc 1,400 won đổi 1 USD lần đầu tiên...

Các đồng tiền ở thị trường mới nổi rơi xuống đáy mới trong năm 2024

Sự trở lại mạnh mẽ của đồng USD đã giáng đòn nặng nề tới các đồng tiền trên toàn cầu trong ngày 16/04, làm suy yếu nhiều đồng tiền châu Á và có thể buộc các quan...

Nhật Bản: Đồng yen giảm xuống mức thấp kỷ lục kể từ năm 1990

Trong bối cảnh đồng USD tăng mạnh sau khi Fed công bố dữ liệu kinh tế, trong phiên giao dịch ngày 15/4, 154,28 yen đổi 1 USD, mức thấp chưa từng thấy kể từ tháng...

Giới chuyên gia nâng dự báo tăng trưởng của kinh tế Mỹ trong năm 2024

Tờ The Wall Street Journal (WSJ) ngày 14/4 dẫn kết quả thăm dò quý mới nhất cho thấy giới lãnh đạo doanh nghiệp và học giả kinh tế đã hạ nguy cơ kinh tế Mỹ rơi vào...

Các nền kinh tế mới nổi và phát triển thận trọng trước đồng USD tăng giá

Trước sức mạnh của đồng USD, ngay cả các nền kinh tế có quy mô như Australia, Canada và EU cũng chứng kiến đồng nội tệ suy yếu với tốc độ mất giá lần lượt là 4,4%...

Triển vọng tín dụng toàn cầu năm 2024 ngày càng tồi tệ

Theo một cuộc khảo sát của Hiệp hội các nhà quản lý danh mục tín dụng quốc tế (IACPM), các nhà quản lý danh mục đầu tư và tài sản tại một số tổ chức tài chính lớn...


TIN CHÍNH




ĐỌC NHIỀU NHẤT


Hotline: 0908 16 98 98