Phát triển kinh tế tư nhân: Khơi thông dòng vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang đối mặt với nhiều biến động, doanh nghiệp trong nước đang còn phục hồi sau dịch, việc khơi thông dòng vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) không chỉ là giải pháp cấp bách mà còn là chiến lược dài hạn nhằm thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
Tại Tọa đàm với doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp để thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân ngày 31/05/2025, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Thị Hồng cho biết, hiện nay dư nợ tín dụng cho khu vực tư nhân đã chiếm đến 92-93% trong tổng số dư nợ tín dụng của toàn nền kinh tế, phản ánh vai trò ngày càng lớn của khu vực này.
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, DNNVV chiếm gần 98% số lượng doanh nghiệp nhưng chỉ tiếp cận được chưa đến 20% tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống. Điều này phản ánh thực tế rằng kinh tế tư nhân đông nhưng chưa mạnh. Doanh nghiệp có quy mô nhỏ, siêu nhỏ, sức cạnh tranh, hiệu quả hoạt động, kỹ năng quản trị còn hạn chế, năng suất lao động thấp, bộ phận doanh nghiệp thông tin chưa minh bạch. Thống đốc NHNN cho rằng, đây chính là nguyên nhân lý giải việc các doanh nghiệp khó có thể chứng minh được việc mình vay ngân hàng rồi có khả năng trả nợ được hay không.
Vì thế, Nghị quyết 68 ra đời với một số định hướng giúp khơi thông dòng vốn cho nhóm doanh nghiệp này như: Phát triển hệ sinh thái tài chính đa dạng, ngoài kênh tín dụng ngân hàng, Nhà nước định hướng thúc đẩy phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán cho DNNVV, hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ bảo lãnh tín dụng, đặc biệt tại địa phương. Thúc đẩy áp dụng công nghệ tài chính (Fintech), tích hợp dữ liệu doanh nghiệp từ cơ quan thuế, hải quan, bảo hiểm để hỗ trợ ngân hàng đánh giá tín dụng chính xác hơn.
Các ngân hàng thương mại cũng được khuyến khích phát triển các gói tín dụng đặc thù cho DNNVV theo ngành, lĩnh vực và chuỗi cung ứng, giảm bớt yêu cầu về tài sản thế chấp.
Song song đó, việc khơi thông dòng vốn không đơn thuần là “bơm tiền” mà cần gắn liền với hiệu quả sử dụng vốn và năng lực hấp thụ của doanh nghiệp. Do đó, Nghị quyết 68 xác định một số giải pháp như: Hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số và quản trị hiện đại; thúc đẩy phát triển doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, tăng cường vai trò của khu vực tư nhân trong đầu tư công - tư (PPP)...
Ông Đinh Hồng Kỳ - Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TPHCM (HUBA) đánh giá, Nghị quyết 68 đóng vai trò như kim chỉ nam cho quá trình phát triển khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là đối với DNNVV. Nghị quyết 68 không dừng lại ở những khẩu hiệu chung mà tạo nền tảng cho việc triển khai hàng loạt chính sách hỗ trợ.
Để hiện thực hóa các mục tiêu Nghị quyết 68 đặt ra, cần đặt trọng tâm vào 3 nền tảng lớn: Nghị quyết 68, Nghị quyết 139 về cải thiện môi trường kinh doanh, Nghị quyết 168 về nâng cao hiệu quả quản trị Nhà nước. 3 nghị quyết này tạo thành một "bộ chương trình hành động" cơ bản, định hướng rõ ràng cho các cơ quan quản lý và chính quyền địa phương triển khai đồng bộ các nghị định, thông tư, văn bản dưới luật; qua đó đảm bảo các nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ thật sự đi vào cuộc sống.
Một ví dụ điển hình là quy định dành 5% quỹ đất trong khu công nghiệp cho DNNVV, với tối thiểu 20ha. Đây là chính sách tiến bộ, nhưng lại đặt ra câu hỏi về tiêu chí cụ thể nào để xác định DNNVV được hưởng ưu đãi? Quản lý khu công nghiệp sẽ phân bổ ra sao? Các địa phương cần có văn bản hướng dẫn chi tiết để chính sách này được triển khai hiệu quả.
Tương tự, mục tiêu cắt giảm 30% thủ tục hành chính hay giảm 30% các loại giấy phép con là rất tích cực, nhưng để đạt được thì cần những hành động cụ thể.
Dù đã có nền tảng chính sách tốt, điều quan trọng nhất vẫn là khâu thực thi. Câu chuyện về gói hỗ trợ 2% lãi suất là minh chứng điển hình - dù đã có chủ trương, nhưng đến nay, nhiều ngân hàng vẫn chưa rõ cách triển khai. NHNN cần ban hành hướng dẫn cụ thể, chi tiết để các địa phương và tổ chức tín dụng có thể chủ động áp dụng.
TS. Nguyễn Trí Hiếu - Chuyên gia tài chính ngân hàng cho rằng, hiện cả nước có khoảng 900,000 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó phần lớn là DNNVV. Mục tiêu đề ra là nâng con số này lên 2 triệu doanh nghiệp trong những năm tới, đòi hỏi những chính sách hỗ trợ mạnh mẽ và thực chất hơn nữa.
Dù Nghị quyết 68 đã thể hiện định hướng tích cực trong việc thúc đẩy DNNVV phát triển, nhưng để chuyển hóa định hướng thành kết quả cụ thể, vấn đề cốt lõi vẫn là tiếp cận vốn - rào cản lớn nhất mà DNNVV đang đối mặt.
Hiện nay, Việt Nam đã có Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DNNVV, được thiết lập từ năm 2014 theo Nghị định 34. Tuy nhiên, quỹ này được tổ chức theo mô hình địa phương, quy mô nhỏ, năng lực tài chính hạn chế và chưa đủ sức hỗ trợ doanh nghiệp trên diện rộng. Đây là điểm nghẽn cần phải tháo gỡ.
Một trong những hành động cụ thể và thiết thực nhất lúc này là tái cấu trúc hệ thống Quỹ Bảo lãnh tín dụng - chuyển từ mô hình địa phương sang mô hình cấp trung ương với quy mô vốn lớn hơn. Thay vì mức vốn điều lệ 200 tỷ đồng như quy định hiện hành, quỹ trung ương cần được nâng lên mức hàng nghìn, thậm chí 10,000 tỷ đồng, để có đủ tiềm lực bảo lãnh và hỗ trợ tín dụng cho doanh nghiệp chưa đủ điều kiện vay vốn ngân hàng thương mại.
Nếu không có những thay đổi mang tính đột phá như vậy, dù có nhiều định hướng đúng đắn, các DNNVV vẫn sẽ phải tự xoay sở để tiếp cận vốn. Khi đó, mục tiêu đạt 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030 sẽ khó thành hiện thực.
TS. Nguyễn Xuân Thành - Giảng viên cao cấp, Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright - cho rằng, Nghị quyết 68 mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp tiếp cận ưu đãi lãi suất, đặc biệt là các doanh nghiệp theo mô hình ESG hoặc kinh tế tuần hoàn. Theo nghị quyết, thay vì hạ chuẩn tín dụng, doanh nghiệp sẽ được hỗ trợ tương đương 2% lãi suất vay từ ngân sách.
Tuy nhiên, để chính sách này phát huy hiệu quả, quan trọng là phải xác lập được tiêu chí rõ ràng, minh bạch và khả thi. “Nếu điều kiện ưu đãi quá lỏng lẻo, dễ bị trục lợi. Ngược lại, nếu quá chặt chẽ, chi phí tuân thủ sẽ quá lớn, khiến doanh nghiệp khó tiếp cận” - ông Thành cảnh báo.
Một chính sách tốt không nhất thiết phải đi kèm với việc thành lập thêm bộ phận hay cơ quan mới. Trái lại, cần tránh tình trạng chồng chéo, lãng phí nguồn lực do mở rộng bộ máy giám sát. Việc thiết kế chính sách cần hướng tới sự đơn giản hóa thủ tục xét duyệt, tận dụng các chuẩn mực quốc tế sẵn có - như các chứng chỉ ESG được công nhận toàn cầu - thay vì tự đặt ra tiêu chí mới gây thêm gánh nặng hành chính.
Về tiếp cận vốn, TS. Thành đề xuất cần đa dạng hóa kênh tín dụng - không chỉ phụ thuộc vào ngân hàng mà còn phải khơi thông thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Đồng thời, mở rộng đối tượng được hỗ trợ và đơn giản hóa thủ tục vay vốn, giúp doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực tư nhân, dễ tiếp cận hơn.
Hỗ trợ phải đến từ nguồn lực thực chất, không mang tính hình thức. Cần tránh cơ chế “xin - cho” và không tạo thêm bộ máy giám sát rườm rà, gây cản trở thay vì hỗ trợ doanh nghiệp.
Ông Nguyễn Quang Huy - CEO Khoa Tài chính - Ngân hàng, Trường đại học Nguyễn Trãi - đánh giá, Nghị quyết 68 ưu tiên phân bổ một phần nguồn tín dụng thương mại cho khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là DNNVV, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Việc định hướng dòng vốn vào các lĩnh vực như đầu tư máy móc thiết bị, công nghệ, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh không chỉ mang tính thời điểm mà còn phản ánh xu thế tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng bền vững, gia tăng giá trị và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Tuy nhiên, để chính sách này thực sự phát huy hiệu quả, điều kiện tiên quyết là phải cụ thể hóa tiêu chí thụ hưởng và mức độ ưu tiên. Các nhóm doanh nghiệp được ưu tiên cần được định danh cụ thể, ví dụ doanh nghiệp có kế hoạch đầu tư công nghệ thân thiện môi trường, ứng dụng chuyển đổi số trong sản xuất - kinh doanh hoặc cam kết thực hiện các chuẩn mực ESG.
Ngoài ra, chính sách tín dụng ưu đãi cần được thiết kế theo hướng phân tầng, phù hợp với đặc điểm và mức độ đổi mới của từng nhóm doanh nghiệp. Chẳng hạn, các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo có thể được vay tới 80% tổng vốn đầu tư với lãi suất ưu đãi 3.5 - 5% trong thời hạn từ 5-7 năm, đi kèm là các hình thức bảo lãnh tín chấp hoặc bảo lãnh quỹ. Trong khi đó, các doanh nghiệp đang trong quá trình chuyển đổi số quy mô vừa có thể tiếp cận gói hỗ trợ riêng, khác biệt với nhóm chỉ đầu tư vào thiết bị đơn thuần.
Để đảm bảo DNNVV thực sự tiếp cận được nguồn vốn này, 3 điều kiện nền tảng cần được đồng thời triển khai:
Thứ nhất, Nhà nước cần tái cơ cấu và nâng cấp các cơ chế bảo lãnh tín dụng hiện có, đặc biệt là chuyển đổi Quỹ bảo lãnh tín dụng địa phương thành Quỹ bảo lãnh tín dụng trung ương với nguồn lực đủ lớn. Đồng thời, cần bổ sung các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo có vốn từ Ngân sách kết hợp xã hội hóa.
Thứ hai, hệ thống ngân hàng cần phát triển các sản phẩm tín dụng thiết kế riêng cho DNNVV và doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Quy trình thẩm định nên chuyển từ mô hình dựa vào tài sản thế chấp sang đánh giá phương án kinh doanh, dòng tiền và tiềm năng phát triển.
Thứ ba, bản thân doanh nghiệp cần nâng cao năng lực quản trị, minh bạch tài chính và có kế hoạch đầu tư rõ ràng. Việc xây dựng báo cáo tài chính chuẩn mực, phương án sử dụng vốn minh bạch sẽ là chìa khóa để doanh nghiệp thuyết phục các tổ chức tín dụng và quỹ đầu tư.
Chỉ khi có sự phối hợp đồng bộ giữa chính sách, tổ chức tài chính và bản thân doanh nghiệp, dòng tín dụng ưu đãi này mới thực sự trở thành chất xúc tác thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân bứt phá, đóng góp vào quá trình “xanh hóa” và số hóa nền kinh tế một cách hiệu quả và bền vững.
Số liệu từ NHNN cho thấy, đến tháng 4/2025, lãi suất cho vay bình quân đối với các giao dịch phát sinh mới của các ngân hàng giảm 0.6%/năm so với cuối năm 2024, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân giảm áp lực vốn trong sản xuất, kinh doanh. Đối với 5 lĩnh vực ưu tiên (xuất khẩu, nông nghiệp, công nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ), lãi suất cho vay ổn định ở mức 4%/năm.
Ông Từ Tiến Phát - Tổng giám đốc Ngân hàng ACB cho rằng, phần lớn các DNNVV khó tiếp cận vốn vì không có tài sản đảm bảo và tài chính không minh bạch. Để tháo gỡ “điểm nghẽn” này, có thể có hệ thống xếp hạng tín dụng uy tín quốc gia, bản thân các DNNVV cần đảm bảo minh bạch tài chính, hình thành quyền đảm bảo tài sản. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng cần thay đổi hình thức tiếp cận khách hàng tốt hơn, thay đổi khẩu vị rủi ro để phù hợp với thực tiễn.
Về cơ chế hỗ trợ lãi suất 2% cho doanh nghiệp nhỏ, đổi mới sáng tạo và áp dụng ESG là rất cần thiết; nhưng trên thực tế, việc triển khai vẫn còn nhiều rào cản, cả từ phía ngân hàng lẫn doanh nghiệp. Vì vậy, cần thêm các giải pháp đồng bộ, cắt giảm thủ tục hành chính, số hóa quy trình cấp tín dụng và xây dựng chi tiết hơn về khung tín dụng xanh.
Ông Phạm Hồng Hải - Tổng Giám đốc Ngân hàng OCB nhìn nhận, thời gian qua, nhiều dự án và cơ sở hạ tầng từng được tháo gỡ điểm nghẽn pháp lý, không chỉ giúp các dự án tái khởi động mà còn kéo theo nhu cầu vốn tăng mạnh, tạo ra lực cầu tích cực đối với tín dụng ngân hàng, giúp khơi thông dòng vốn cho nền kinh tế.
Khu vực doanh nghiệp tư nhân ngày càng khẳng định vai trò chủ lực trong nền kinh tế quốc dân. Do đó, việc các cơ quan Nhà nước đưa ra nhiều chính sách đồng hành và hỗ trợ nhóm doanh nghiệp này là cần thiết và đúng hướng. Trong vài tháng trở lại đây, OCB đã triển khai nhiều giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, mục tiêu dài hạn là đồng hành cùng doanh nghiệp trẻ, có mô hình kinh doanh đổi mới, từ đó có thể hình thành nên những “kỳ lân” Việt Nam trong tương lai.
Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp ở Việt Nam có tiềm năng phát triển rất lớn nhưng gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay, do không có tài sản thế chấp hoặc lịch sử tín dụng, mà chủ yếu dựa vào dòng tiền, kế hoạch kinh doanh và mô hình tăng trưởng. Vì vậy, ngoài việc cung cấp tín dụng không cần tài sản đảm bảo, các ngân hàng còn cần thiết kế gói giải pháp tài chính toàn diện giúp doanh nghiệp khởi nghiệp quản lý dòng tiền hiệu quả, tối ưu dòng thu chi và kiểm soát chi phí vận hành.
Bên cạnh đó, ngân hàng còn đóng vai trò cầu nối, giúp doanh nghiệp mở rộng mạng lưới đối tác, kết nối với nhà đầu tư, nhà cung ứng và hệ sinh thái khách hàng tiềm năng... góp phần thúc đẩy doanh nghiệp phát triển bền vững ngay từ giai đoạn đầu khởi nghiệp.
Thiết kế: Tuấn Trần
- 08:15 20/06/2025