Nhu cầu khách hàng tăng, PMI tháng 2 tiếp tục cải thiện

Nhu cầu khách hàng tăng, PMI tháng 2 tiếp tục cải thiện

PMI tháng 2/2018 tăng nhờ sản lượng tăng trưởng nhanh hơn trong bối cảnh nhu cầu khách hàng tăng, hoạt động mua hàng tăng mạnh hỗ trợ cho tăng trưởng sản lượng và tăng hàng tồn kho, chi phí vẫn tăng nhanh.

Theo dữ liệu thu thập từ ngày 6-20/2, các điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất của Việt Nam tiếp tục cải thiện mạnh mẽ trong tháng 2. Tốc độ tăng trưởng sản lượng nhanh hơn khi các thành viên nhóm khảo sát cho biết nhu cầu khách hàng tăng. Có bằng chứng cho thấy hàng tồn kho tăng trong tháng khi các nhà sản xuất tăng mạnh hoạt động mua hàng, và hàng tồn kho trước sản xuất đã tăng với tốc độ nhanh nhất trong một năm. Trong khi đó, tốc độ tăng chi phí đầu vào vẫn cao và các công ty tiếp tục tăng giá bán hàng, mặc dù với tốc độ chậm hơn một chút.

Chỉ số Nhà quản trị Mua hàng (PMI, Purchasing Managers’ Index) toàn phần lĩnh vực sản xuất Việt Nam đã tăng nhẹ từ mức 53.4 điểm của tháng 1 lên 53.5 điểm trong tháng 2, cho thấy sự cải thiện mạnh mẽ của sức khỏe lĩnh vực sản xuất. Các điều kiện kinh doanh đã liên tục cải thiện kể từ tháng 12/2015.

Tốc độ tăng trưởng sản lượng ngành sản xuất trong tháng 2 đạt mức cao của 10 tháng khi nhu cầu khách hàng tăng. Đây cũng là một nhân tố làm số lượng đơn đặt hàng mới tiếp tục tăng mạnh. Số lượng đơn đặt hàng mới đã tăng suốt 27 tháng qua, với số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới cũng tăng mạnh trong tháng 2.

Mặc dù số lượng đơn đặt hàng mới tăng, lượng công việc tồn đọng đã giảm khi các công ty cho biết họ muốn giải phóng lượng công việc chưa được thực hiện. Hơn nữa, tốc độ giảm là nhanh nhất trong 20 tháng.

Việc làm tiếp tục tăng mạnh trong tháng 2, mặc dù tốc độ tạo thêm việc làm chậm lại so với tháng 1. Ở những nơi tăng việc làm, nguyên nhân chủ yếu được cho là do yêu cầu sản xuất tăng lên.

Cùng với tăng việc làm, các công ty cũng tăng hoạt động mua hàng để hỗ trợ tăng trưởng sản lượng và tăng hàng tồn kho. Hoạt động mua hàng hóa đầu vào tăng làm tồn kho hàng mua tăng mạnh, mức tăng đáng kể nhất trong một năm. Trong khi đó, hàng tồn kho thành phẩm đã giảm nhưng ở mức nhẹ, là mức yếu nhất trong chuỗi giảm kéo dài 8 tháng nay.

Chi phí đầu vào tiếp tục tăng mạnh trong tháng 2, và tốc độ lạm phát chỉ chậm hơn một chút so với mức cao của 81 tháng trong tháng 1. Các thành viên nhóm khảo sát cho rằng giá cả đầu vào tăng chủ yếu do chi phí nguyên vật liệu tăng. Có một số báo cáo cho thấy các nhà cung cấp đã tăng giá bán khi nhu cầu hàng hóa đầu vào tăng.

Vì giá cả đầu vào tiếp tục tăng, các nhà sản xuất đã tăng giá cả đầu ra tương ứng. Giá bán hàng đã tăng trong sáu tháng liên tiếp, với mức tăng gần đây nhất chỉ chậm hơn một chút so với đầu năm.

Thời gian giao hàng của nhà cung cấp hầu như không thay đổi trong tháng.

Các nhà sản xuất Việt Nam vẫn lạc quan rằng sản lượng sẽ tăng trong năm tới phù hợp với các kế hoạch phát triển của công ty. Tuy nhiên, mức độ lạc quan đã giảm đi thành mức thấp nhất kể từ tháng 6 năm ngoái.

Bình luận về dữ liệu khảo sát PMI ngành sản xuất Việt Nam, Phó Giám đốc tại IHS Markit (Công ty thu thập kết quả khảo sát), Andrew Harker, nói: "Lĩnh vực sản xuất của Việt Nam trong tháng 2 tiếp tục tăng trưởng mạnh, với một số chỉ số khảo sát báo hiệu sản lượng đã lấy lại đà tăng. Sản lượng tăng nhanh nhất trong thời gian 10 tháng, và hoạt động mua hàng tăng mạnh nhất kể từ cuối năm 2016 khi các công ty cho biết đã cố gắng tăng hàng tồn kho. Điều này cho thấy các nhà sản xuất lạc quan về triển vọng nhu cầu khách hàng trong ngắn hạn, trong khi kỳ vọng sản lượng cũng thể hiện thái độ tích cực trong kinh doanh".

Chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng (PMI) ngành sản xuất tại Việt Nam (The Nikkei Vietnam Manufacturing PMI) dựa theo dữ liệu khảo sát hàng tháng được gửi đến các nhà quản trị mua hàng của hơn 400 doanh nghiệp ngành công nghiệp (industrial companies). Bảng dữ liệu được phân loại theo GDP và quy mô lực lượng lao động doanh nghiệp. Lĩnh vực sản xuất (manufacturing sector) được chia thành 8 mảng: kim loại (basic metals), hóa chất và nhựa (chemicals & plastics), điện và quang học (electrical & optical), thực phẩm và đồ uống (food & drink), kỹ thuật cơ khí (mechanical engineering), dệt và may mặc (textiles & clothing), giấy và gỗ (timber & paper), vận chuyển (transport).

Phúc Minh

FiLi