PMI tháng 10 tương đương 50 điểm, kết thúc thời kỳ tăng kéo dài 46 tháng

PMI tháng 10 tương đương 50 điểm, kết thúc thời kỳ tăng kéo dài 46 tháng

Chỉ số Nhà quản trị Mua hàng (Purchasing Managers’ Index - PMI) ngành sản xuất Việt Nam có kết quả tương đương ngưỡng trung bình 50 điểm trong tháng 10, giảm so với mức 50.5 điểm trong tháng 9, từ đó kết thúc thời kỳ tăng kéo dài 46 tháng. Sự yếu kém trong tháng 10 chủ yếu tập trung ở các công ty sản xuất hàng hóa trung gian.

Số lượng đơn đặt hàng mới tiếp tục tăng nhưng với tốc độ nhỏ, sau khi chậm lại tháng thứ ba liên tiếp thành mức yếu nhất trong thời kỳ tăng gần đây bắt đầu vào tháng 12/2015. Khách hàng muốn giảm quy mô đơn hàng.

Tình trạng tương tự diễn ra với số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới khi tốc độ tăng chậm lại thành mức độ nhỏ.

Những dấu hiệu của nhu cầu yếu đã khiến các nhà sản xuất giảm sản lượng tháng thứ hai liên tiếp trong tháng 10. Tuy nhiên, tốc độ giảm nhẹ và hầu như ngang bằng với tháng 9.

Các công ty đã giảm số lượng việc làm tháng thứ hai liên tiếp. Mặc dù chỉ ở mức khiêm tốn, tốc độ giảm việc làm là cao nhất kể từ tháng 3/2015. Công suất hoạt động giảm đã khiến lượng công việc tồn đọng tăng lần thứ tư trong năm tháng qua.

Hoạt động mua hàng không thay đổi trong tháng 10, từ đó kết thúc thời kỳ tăng kéo dài 46 tháng. Một số thành viên nhóm khảo sát tăng hoạt động mua hàng phù hợp với mức tăng của số lượng đơn đặt hàng mới, nhưng những thành viên khác lại giảm mua hàng hóa đầu vào vì yêu cầu về sản lượng giảm.

Đã có một số báo cáo về những vấn đề với nguồn cung nguyên vật liệu trong tháng 10, dẫn đến giá cả đầu vào tăng và thời gian giao hàng của nhà cung cấp bị kéo dài.

Tốc độ tăng chi phí đầu vào tăng nhẹ thành mức cao của năm tháng, nhưng vẫn dưới mức trung bình của lịch sử chỉ số. Để đáp lại mức tăng cao hơn của giá cả đầu vào, các công ty đã tăng giá đầu ra lần đầu tiên trong 11 tháng. Tuy nhiên, tốc độ tăng giá đầu ra nhỏ vì nhu cầu khách hàng yếu đã hạn chế năng lực định giá.

Sản lượng giảm ảnh hưởng lên lượng hàng tồn kho trong tháng 10. Nhu cầu hàng hóa đầu vào giảm trong hoạt động sản xuất đã dẫn đến tăng tồn kho hàng mua. Trong khi đó, sản lượng giảm dẫn đến tồn kho thành phẩm giảm, sau khi đã tăng trong tháng 9. Hơn nữa, tốc độ giảm là nhanh nhất kể từ tháng 3/2016.

Mức độ lạc quan trong kinh doanh tăng trở lại từ mức thấp của 13 tháng được ghi nhận trong tháng 9 và quay trở lại mức được ghi nhận trong tháng 8. Các công ty tự tin rằng sản lượng sẽ tăng trong năm tới, và tình trạng lạc quan tích cực thường được cho là do kỳ vọng thị trường tăng.

Bình luận về dữ liệu khảo sát PMI ngành sản xuất Việt Nam, Andrew Harker, Phó Giám đốc tại IHS Markit, công ty thu thập kết quả khảo sát, nói:

Giai đoạn trì trệ của lĩnh vực sản xuất Việt Nam tiếp tục kéo sang tháng 10 khi các công ty có vẻ thận trọng về sản lượng, việc làm và hoạt động mua hàng trong bối cảnh các dấu hiệu cho thấy số lượng đơn đặt hàng mới tăng yếu hơn và tình trạng cầu trên thế giới giảm. Tuy nhiên, cần lưu ý là mối quan hệ lịch sử giữa PMI của Việt Nam và dữ liệu chính thức cho thấy ngay cả khi kết quả chỉ số ở mức quanh 50 điểm vẫn có thể chuyển thành mức tăng trưởng mạnh. Do đó, những gì chúng ta có vẻ đang chứng kiến lúc này chỉ là sự suy giảm tăng trưởng chứ không phải bất cứ điều gì đáng quan ngại khác”.

Chỉ số Nhà quản trị Mua hàng (PMI) ngành sản xuất tại Việt Nam (The Nikkei Vietnam Manufacturing PMI) dựa theo dữ liệu khảo sát hàng tháng được gửi đến các nhà quản trị mua hàng của hơn 400 doanh nghiệp ngành công nghiệp (industrial companies). Bảng dữ liệu được phân loại theo GDP và quy mô lực lượng lao động doanh nghiệp. Lĩnh vực sản xuất (manufacturing sector) được chia thành 8 mảng: Kim loại (basic metals), hóa chất và nhựa (chemicals & plastics), điện và quang học (electrical & optical), thực phẩm và đồ uống (food & drink), kỹ thuật cơ khí (mechanical engineering), dệt và may mặc (textiles & clothing), giấy và gỗ (timber & paper), vận chuyển (transport).

Gia Nghi

FILI