Ngành dệt may, da giày: Mong Chính phủ quyết đoán hơn

Ngành dệt may, da giày: Mong Chính phủ quyết đoán hơn

Theo dõi tiến trình đàm phán hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), điều quan tâm nhất của các doanh nghiệp dệt may, da giày là quy tắc xuất xứ để tận dụng ưu đãi thuế quan từ TPP.

Sẵn sàng đón cơ hội phát triển xuất khẩu

Phần lớn doanh nghiệp ngành dệt may, da giày cho rằng mở cửa thị trường ngay là sự lựa chọn tốt nhất đối với các nước tham gia TPP. Riêng với lĩnh vực dệt may, da giày, càng mở cửa chậm, doanh nghiệp càng mất cơ hội. Ông Diệp Thành Kiệt, phó chủ tịch hiệp hội Da giày Việt Nam cho biết đối với da giày, túi xách năm 2012 Việt Nam xuất 8,7 tỉ USD, trong đó trên 3,6 tỉ USD vào các nước TPP, chiếm 41%. Đối với dệt may năm 2012 cả nước xuất khẩu 17,2 tỉ USD, trong đó vào Mỹ là 9,5 tỉ USD, chiếm 55%, nếu cộng thêm các nước đang đàm phán TPP thì hiện nay xuất khẩu dệt may vào TPP khoảng 10 tỉ USD, chiếm khoảng 58%.

Garmex Sài Gòn phát triển nhờ vào rất nhiều những hiệp định thương mại hội nhập.

Ông Lê Quang Hùng, chủ tịch HĐQT công ty Garmex Sài Gòn nhận thấy trong bối cảnh chung ở tương lai 2015 – 2016, TPP là một khối cần quan tâm thôi, các khu vực kinh tế khác và các hiệp định với EU, các hiệp định thuế quan với một số nước Đông Âu đều có cơ hội vì mỗi thị trường doanh nghiệp sẽ lựa chọn phù hợp năng lực của mình. Doanh nghiệp đã có kinh nghiệm về “không bỏ nhiều trứng vào một rổ”, song ông Hùng nhìn nhận Garmex Sài Gòn phát triển nhờ vào rất nhiều những hiệp định thương mại hội nhập, nên trân trọng sự đóng góp của các đoàn đàm phán. Ngành may không thể phát triển mạnh nếu không xuất khẩu. Tạo thêm một cơ hội không phải chỉ thị trường, mà chính là cho doanh nghiệp cơ hội cơ cấu lại mặt hàng, chọn lựa lại khách hàng thích hợp nội lực của mình.

Theo ông Diệp Thành Kiệt, trong những cái được khi tham gia TPP, đầu tiên nghĩ tới là sẽ có môi trường kinh doanh ngày càng minh bạch, thể hiện qua thiện chí các bên đàm phán. Cái khó lớn nhất là khả năng hưởng được những lợi thế từ TPP, tránh không phải là người thụ hưởng thực sự. Trong ngành da giày hiện có trên 20% doanh nghiệp lớn, nhưng trong đó doanh nghiệp lớn của Việt Nam đếm trên đầu ngón tay, còn lại FDI, số doanh nhgiệp lớn này xuất khẩu chiếm trên 75%; còn lại trên 70% doanh nghiệp nhỏ chỉ xuất chiếm 25%. Trong dệt may, tổng số doanh nghiệp là 19.000 doanh nghiệp, trong đó khoảng 70% doanh nghiệp vừa và nhỏ. Doanh nghiệp cần theo dõi thông tin quá trình đàm phán để hiểu được những cái lợi và không lợi. Dù có TPP hay không, cái chính vẫn là sức khỏe của doanh nghiệp, nếu không khỏe thì cho dù Chính phủ có đàm phán nhiều hiệp định mà doanh nghiệp không có đủ sức làm thì không có tác dụng gì.

Tháo nút thắt đầu nguồn

Tham gia TPP, lo lắng rào cản lớn đối với hàng dệt may là quy tắc xuất xứ như qui định về nguyên vật liệu để sản xuất ra sản phẩm may mặc phải đáp ứng yêu cầu từ sợi (yarn forward) hoặc nguyên liệu để sản xuất ra sản phẩm vải dệt kim phải đáp ứng yêu cầu từ xơ (fiber forward) ... Theo hiệp định giữa Hoa Kỳ và Chilê thì hàm lương khu vực trong sản phẩm giày dép là 55%. Điều này làm các doanh nghiệp Việt Nam lo ngại phía Mỹ sẽ đặt ra yêu cầu này với Việt Nam. Hiệp hội Da giày Việt Nam đã đề nghị tính xuất xứ tập trung vào qui định về chuyển đổi mã số hàng hóa dựa trên việc phân loại hàng hóa (HS) theo tổ chức Hải quan Thế giới (WCO) và bảng phân loại HS này được áp dụng trên toàn thế giới.

Tâm tư kéo dài suốt bao nhiêu năm của doanh nghiệp dệt may, da giày là làm thế nào để phát triển nguồn nguyên phụ liệu ngay trong nước. Giờ trong đàm phán TPP, vấn đề này càng được đặt ra bức xúc hơn để hưởng lợi từ TPP trong vài năm tới.

Ông Kiệt cho biết thông tin của hội Bông sợi Việt Nam, tất cả nông trại Việt Nam chỉ đáp ứng được 1% nhu cầu bông mỗi năm, 99% phải nhập. Đã có một số doanh nghiệp đầu tư nhà máy sợi nhưng hầu hết là nhập máy móc, nhập nguyên liệu về làm sợi.

Cách tính tỷ lệ nội địa hóa khi thống kê trong ngành da giày có điều đáng suy nghĩ như năm rồi xuất khẩu 8,7 tỉ USD thì nhập khẩu chỉ 40%, xem như 60% nguyên liệu chủ động trên số liệu. Nhưng thực tế vô chi tiết thì thấy các công ty lớn nước ngoài, bên cạnh nhà máy làm thành phẩm họ cũng đầu tư luôn những nhà máy sản xuất nguyên phụ liệu chỉ cung cấp riêng cho họ. Trong tương lai tỷ lệ nội địa hóa theo báo cáo sẽ cũng cao và có thể cao hơn nhưng hầu như cũng từ những công ty nước ngoài đầu tư khép kín như trên, còn doanh nghiệp Việt Nam vẫn loay hoay. Còn hiện nay để xây dựng một nhà máy sợi rất kỳ công, nhưng không phải không làm được. Vấn đề khó là doanh nghiệp đi đến các địa phương xin đầu tư dệt, nhuộm, thuộc da hầu như bị từ chối, hoặc trả lời chấp thuận nếu cam kết nước thải loại A (nước uống được), trong khi tiêu chuẩn nước thải của lĩnh vực này ở các nước là loại B (nước nuôi cá được). Có doanh nghiệp nước ngoài đã được duyệt dự án đầu tư, đến khi cần sử dụng nguồn nước thì được đề nghị tự khai thác lấy mà chưa biết nguồn nước ở đó có đạt không.

Các doanh nghiệp cho rằng nên chăng không nên gọi đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu là “công nghiệp phụ trợ” vì đó là ngành công nghiệp chính, công nghiệp thượng nguồn đối với sản xuất. Chính cách nghĩ là “phụ trợ” nên hời hợt trong suốt thời gian dài.

Có thể xây dựng được nguồn cung nguyên phụ liệu cho ngành dệt may, da giày trong nước vài năm tới không, có ý kiến cho rằng hiện đã quá muộn, nhưng cũng có ý kiến nhấn mạnh việc này có thành công hay không là nằm ở sự quyết tâm, quyết đoán của Chính phủ. Ông Lê Quang Hùng khẳng định ngành dệt may xuất khẩu không thể tách khỏi chuỗi giá trị toàn cầu, càng chủ động bao nhiêu càng đứng vững. Chính phủ có nên để các địa phương tự quyết định không hay đã đến lúc Thủ tướng phải quyết định và chỉ đạo các địa phương thực hiện. Việc xử lý nước thải, từng doanh nghiệp đầu tư thì chi phí cao, nhưng nếu nhiều doanh nghiệp xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn ở mức B, các khu công nghiệp ở địa phương lo xử lý đến mức nước thải tiêu chuẩn A thì chi phí thấp hơn.

Nguyệt Hồng

sgtt