Nợ công tính lại đã lên 66,4% GDP

27/09/2015 21:13
27-09-2015 21:13:00+07:00

Nợ công tính lại đã lên 66,4% GDP

Bộ Kế hoạch và Đầu tư tính toán lại, nợ công trong năm 2014, nếu tính thêm chi phí dự phòng nợ bất khả kháng là 5% nợ công trong nước thì sẽ là 66,4% GDP, chênh lệch tới 6,5 điểm phần trăm so với mức nợ công 59,9% GDP đã được công bố.

Nếu tính thêm chi phí dự phòng nợ bất khả kháng là 5% thì nợ công trong nước sẽ là 66,4% GDP. Ảnh TL

Trong nhiều báo cáo gửi tới các kỳ họp Quốc hội gần đây, Chính phủ đều khẳng định nợ công vẫn ở mức an toàn. Theo Luật Quản lý nợ công 2009, phạm vi tính nợ công bao gồm nợ chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ của chính quyền địa phương.

Như vậy, phạm vi xác định nợ công của Việt Nam khác với Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) là không bao gồm ba khoản nợ: nợ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), nợ của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và nợ của tổ chức bảo hiểm và an sinh xã hội.

Thay đổi cách tính

Từ thực tế này, một báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về nợ công cho rằng, phạm vi xác định nợ công theo Luật Quản lý nợ công còn có một số bất cập và chưa tính đầy đủ một số khoản nợ có bản chất là nợ công, làm ảnh hưởng đến sự chính xác và cập nhật của số liệu nợ công.

Bộ này phân tích sự khác nhau giữa cách tính nợ công của Việt Nam và các tổ chức quốc tế như sau:

Thứ nhất, về nợ NHNN. Theo luật, NHNN không có chức năng thực hiện các khoản vay thay Chính phủ và các khoản vay nợ khác có bản chất nợ công (trên thực tế, NHNN được Nhà nước ủy quyền để đàm phán và ký kết các khoản nợ); các khoản nợ NHNN chỉ là công cụ của chính sách tiền tệ không phải để chi tiêu, không có rủi ro thanh toán vỡ nợ, không được tính vào nợ công là hợp lý.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất ngưỡng nợ công phù hợp bình quân giai đoạn 2015-2020 là 68% GDP.

Thứ hai, về nợ của tổ chức bảo hiểm và an sinh xã hội. Hiện nay quỹ bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) còn kết dư nên chưa phát sinh nợ vay. Khi quỹ BHXH, BHYT mất cân đối thu chi dẫn đến phải vay nợ để chi trả bảo hiểm thì Chính phủ phải đảm bảo nghĩa vụ thanh toán cuối cùng nếu các tổ chức này không trả được nợ. Do đó, về bản chất nợ của các tổ chức BHXH, BHYT cần được tính vào nợ công.

Thứ ba, về nợ của DNNN và các tổ chức tài chính - tín dụng của Nhà nước. Nếu tính toàn bộ nợ phải trả của khu vực DNNN vào nợ công thì tính thừa (bị trùng lắp với số nợ đã được Chính phủ bảo lãnh, tính cả số nợ DNNN có khả năng trả nợ và tính cả số nợ mà chưa phát sinh nghĩa vụ trả thay của Nhà nước). Nếu loại bỏ hoàn toàn nợ của khu vực DNNN ra khỏi nợ công thì tính thiếu (chưa tính đủ các khoản nợ có bản chất nợ công và các khoản nợ xấu mất khả năng thanh toán mà Nhà nước phải trả thay sẽ chuyển thành nợ công).

Do vậy, chỉ nên tính vào nợ công số nợ mà DNNN không có khả năng thanh toán, buộc Chính phủ phải có nghĩa vụ thanh toán thay và các khoản nợ ngầm định khác.

Đối với các khoản nợ phải trả của Ngân hàng Chính sách xã hội và Ngân hàng Phát triển Việt Nam (các khoản nhận tiền gửi, tiền vay và các khoản nợ phải trả khác, trừ các khoản phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh), không tính vào nợ công là không phù hợp. Theo điều lệ, các tổ chức này hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận và được Chính phủ đảm bảo khả năng thanh toán.

Từ thực tế trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tính toán lại, nợ công nếu tính thêm chi phí dự phòng nợ bất khả kháng là 5% nợ công trong nước (49.500 tỉ đồng, hay 1,38% GDP) thì sẽ là 2,656 triệu tỉ đồng, hay 66,4% GDP trong năm 2014. Như vậy, sẽ chênh lệch tới 6,5 điểm phần trăm so với nợ công được công bố. Nợ công, theo Luật Quản lý nợ công là 2,395 triệu tỉ đồng, hay 59,9% GDP đến cuối năm 2014.

Thêm tiêu chí đánh giá an toàn nợ công

Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng nhận xét, các báo cáo của các cơ quan quản lý về nợ công chỉ công bố chỉ tiêu “nghĩa vụ trả nợ chính phủ/tổng thu ngân sách”, mà không công bố chỉ tiêu “nghĩa vụ trả nợ công/tổng thu ngân sách”, dẫn đến kết quả đánh giá mức độ rủi ro trả nợ công chưa đầy đủ.

Vì vậy, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất thêm các tiêu chí đánh giá mức độ an toàn nợ công Việt Nam như khả năng trả nợ bằng nguồn thu ngân sách (tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ công so với tổng thu ngân sách hàng năm); mức độ bội thu hoặc bội chi ngân sách hàng năm; tỷ lệ nợ công/GDP; các tiêu chí khác: chất lượng và rủi ro nợ công; mức độ năm chỉ tiêu an toàn nợ nước ngoài theo tiêu chí của IMF/WB; hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển; hệ số tín nhiệm của quốc gia…

Báo cáo của bộ này đánh giá khả năng trả nợ từ nguồn thu ngân sách nhà nước (NSNN) còn hạn chế, và nợ công còn tiềm ẩn nhiều rủi ro nên mức độ an toàn nợ công là không bền vững. Bộ này cũng phân tích các chỉ tiêu về khả năng trả nợ.

Chẳng hạn, nghĩa vụ trả nợ trên tổng thu ngân sách lớn hơn 30% (giai đoạn 2013- 2015 lần lượt là 33%, 38%, 45%). Bội chi ngân sách liên tục 10 năm (bình quân giai đoạn 2006- 2015 là âm 5,43% GDP). Bội chi lớn hơn chi đầu tư phát triển (năm 2014, 2015 tương ứng là 54,9 và 31.000 tỉ đồng). Chi thường xuyên nhỏ hơn thu từ thuế, phí và lệ phí (năm 2014, 2015 tương ứng là 74,8 và 14.100 tỉ đồng).

Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, tỷ lệ tổng nghĩa vụ trả nợ công/thu NSNN lên tới gần 38% trong năm 2014 và 45% năm 2015; tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ chính phủ/thu NSNN vào khoảng gần 26% năm 2014 và 32% năm 2015. Điều này cho thấy, các tỷ lệ trả nợ đang ở mức cao và có xu hướng tăng, ảnh hưởng lớn đến sự an toàn nợ công.

Bên cạnh đó, cân đối nguồn trả nợ trong NSNN không đủ, vay để trả nợ gốc ngày càng tăng. Vay trả nợ gốc năm 2014 gần 80.000 tỉ đồng; năm 2015 là 130.000 tỉ tồng

Hơn nữa, tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam cao hơn nhiều so với mức bình quân của các nước đang phát triển và các nước trong khu vực.

Cuối cùng, Việt Nam có thu nhập trung bình thấp, dân số đang già hóa nhanh, năng suất lao động bình quân thấp và giảm dần gây áp lực tăng nợ công.

Tuy nhiên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư vẫn cho rằng, rủi ro vỡ nợ của Việt Nam là thấp. Bộ này lý giải, nợ vay trong nước (năm 2013 là 51%, năm 2014 là 54%) có tỷ trọng cao hơn nợ vay nước ngoài, có xu hướng tăng, tuy kỳ hạn nợ ngắn phải đảo nợ nhưng mức độ đảm bảo thanh toán cao. Bên cạnh đó, nợ vay nước ngoài (năm 2013 là 49%, năm 2014 là 46%) có tỷ trọng thấp hơn nợ vay trong nước, có xu hướng giảm và mức độ rủi ro rất thấp so với tiêu chuẩn an toàn của IMF và WB. Bộ này cho rằng, rủi ro rút vốn của nợ nước ngoài rất thấp, nên an ninh tài chính quốc gia đảm bảo. Vì lẽ đó, bộ đề xuất ngưỡng nợ công phù hợp bình quân giai đoạn 2015-2020 là 68% GDP.

Tư Hoàng

tbktsg





TIN CÙNG CHUYÊN MỤC

Khai phá tiềm năng vàng 2025: Thúc đẩy tiêu dùng trong nước và phát triển thị trường nội địa

Năm 2025 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của Việt Nam với mục tiêu tăng trưởng GDP trên 8%, tùy thuộc vào hiệu quả triển khai các chính sách hỗ trợ và kiểm soát...

Bộ Tài chính: CPI bình quân 2 tháng đầu năm 2025 tăng 3.27% so với cùng kỳ

Theo báo cáo của Bộ Tài chính, tình hình kinh tế - xã hội 2 tháng đạt nhiều kết quả tích cực, tốt hơn tháng trước và cùng kỳ năm trước. Trong đó, chỉ số giá tiêu...

Việt Nam: Kỷ nguyên vươn mình

Trong thuyết Tam Nguyên Cửu Vận của phong thủy học, mỗi vận kéo dài 20 năm, và vận 9 (2024-2043) được xem là giai đoạn chuyển mình quan trọng. Đây là thời kỳ của...

Đầu tư công trình phục vụ APEC 2027 phải đảm bảo mục tiêu kép

Trưa 3/3, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì cuộc họp của Thường trực Chính phủ với các bộ, ngành và tỉnh Kiên Giang về công tác chuẩn bị tổ chức Hội nghị APEC (Diễn...

Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: HỌC TẬP SUỐT ĐỜI

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Học tập suốt đời". Cổng Thông tin điện tử Chính phủ trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.

Thủ tướng ký chỉ thị đặc biệt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 8% trở lên

Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ký Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 01/03/2025, đề ra lộ trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, nhằm đạt...

Chính sách kinh tế mới có hiệu lực từ tháng 3

Quy định mới về thuế chống bán phá giá với thép cán nóng từ Trung Quốc; quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết; kinh doanh xuất khẩu gạo; điều...

Trình Trung ương đề án sáp nhập tỉnh, bỏ cấp huyện trước ngày 7/4

Bộ Chính trị yêu cầu xây dựng đề án sáp nhập một số đơn vị hành chính cấp tỉnh, không tổ chức cấp huyện, tiếp tục sáp nhập đơn vị hành chính cấp xã để trình Ban...

Hà Nội cần sử dụng cơ chế thí điểm sandbox để phát triển đột phá

Góp ý cho Hà Nội, nhiều chuyên gia cho rằng, thành phố nên mạnh dạn triển khai cơ chế thí điểm thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) trong quá trình triển khai Nghị...

Thủ tướng phê chuẩn nhân sự hai tỉnh Đồng Tháp và Nghệ An

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các Quyết định phê chuẩn nhân sự Ủy ban Nhân dân 2 tỉnh Đồng Tháp và Nghệ An nhiệm kỳ 2021-2026.


Hotline: 0908 16 98 98