Stanley F. Druckenmiller: “Môn đệ” vĩ đại của Geogre Soros
Trong thế giới tài chính, có những nhân vật tuy không ồn ào nhưng lại tạo nên những cú đánh cân não khiến cả thị trường phải chao đảo. Stanley Druckenmiller chính là một trong số đó.
Khi thị trường chứng khoán Tokyo khởi sắc vào tháng 4/1993, một trong những "tay chơi" lớn góp phần tạo nên đà tăng này chính là Quantum Group - quỹ đầu tư được điều hành bởi huyền thoại George Soros. Thực vậy, khi tin đồn lan ra rằng ông Soros đã đặt cược lớn và nhanh vào hàng loạt chứng khoán Nhật Bản, dòng vốn chảy vào thị trường ngày càng tăng tốc.
Nhưng George Soros không hề trực tiếp tham gia vào quyết định đầu tư này. Lúc đó, ông đang ở Đông Âu và Nga để điều hành các dự án từ thiện của mình. Người thực sự vạch ra kế hoạch đầu tư vào thị trường Nhật Bản chính là “cánh tay phải” của Soros - Stanley F. Druckenmiller.
Chính Druckenmiller cũng là người kiến trúc sư đứng sau chiến lược đặt cược 10 tỷ USD vào đồng Mark Đức và chống lại đồng Bảng Anh cùng đồng Lira của Italy vào tháng 9/1992. Thương vụ này đã mang về cho Quantum khoản lợi nhuận 2 tỷ USD chỉ trong vòng vài tuần.
Trong giai đoạn 1989-1993, ông Druckenmiller (khi đó mới 39 tuổi) đã âm thầm đảm nhận vai trò “bản sao” của Soros. Ông không chỉ quyết định các danh mục đầu tư phức tạp cho Quantum mà còn điều hành quỹ riêng Duquesne Capital Management của mình tại Pittsburgh - một quỹ đầu tư với hiệu suất sinh lời ấn tượng.
Chiến lược đầu tư của Druckenmiller vượt xa khỏi phạm vi mua bán cổ phiếu và trái phiếu thông thường. Ông mở rộng hoạt động sang thế giới phức tạp của những công cụ phái sinh như hợp đồng quyền chọn và hợp đồng tương lai, trải rộng trên nhiều loại tài sản toàn cầu từ ngoại tệ, trái phiếu đến chỉ số chứng khoán. Thành công vang dội của ông đã góp phần củng cố nhận định rằng: "Nếu thập niên 1980 thuộc về các chuyên gia giao dịch thì thập niên 1990 là thời đại của các hợp đồng phái sinh".
Kể từ khi Druckenmiller nắm quyền điều hành, các quỹ thuộc Quantum đã đạt mức tăng trưởng ấn tượng 40% giá trị tài sản ròng hàng năm - thậm chí vượt xa thành tích 30% mà chính Soros đã thiết lập từ năm 1969. Năm 1992 đánh dấu đỉnh cao trong sự nghiệp của ông với mức tăng trưởng 60%.
"Trong tất cả người trong ngành, ông ấy đơn giản là người xuất sắc nhất, từ tầm nhìn vĩ mô đến khả năng phân tích từng cổ phiếu riêng lẻ", Julian Robertson - người điều hành các quỹ Tiger Management, một đối thủ cạnh tranh lớn của Quantum, nhận xét.
Bộ đôi đầu tư Soros-Druckenmiller lợi hại đến mức khiến nhiều người trên Phố Wall bàn tán về khả năng họ có thể làm suy yếu một đồng tiền lớn. Vào tháng 1/1993, khi Druckenmiller đến London, ông mang theo uy tín như một vị nguyên thủ tài chính. Ông đã có những cuộc gặp riêng với các quan chức cấp cao từ Bộ Tài chính Anh và Ngân hàng Trung ương Anh (BOE). Trong cuộc phỏng vấn với tờ Financial Times, ông phủ nhận thông tin Quantum đang tính lặp lại chiến thuật “bán khống chớp nhoáng” các đồng tiền châu Âu như tháng 9/1992, lần này là đánh cược vào sự sụt giảm của đồng Franc.
Nhưng Quantum có lẽ đang đứng trước ngã ba đường. Quy mô khổng lồ của quỹ thời điểm đó có nguy cơ trở thành rào cản trong việc tìm kiếm đủ cơ hội đầu tư để duy trì mức sinh lời ngoạn mục. Hơn nữa, ban lãnh đạo Quantum đã bị triệu tập ra tòa liên quan đến cuộc điều tra của Bộ Tư pháp về bê bối đấu giá trái phiếu Chính phủ năm 1991 liên quan đến Salomon Brothers. Chính phủ được cho là đang xem xét liệu các công ty đầu tư lớn và khách hàng của họ có tham gia thao túng thị trường nhằm đẩy giá trái phiếu kho bạc hay không.
Ông Druckenmiller luôn kín tiếng. Về mặt danh nghĩa, ông là một trong 12 Giám đốc điều hành tại Soros Fund Management - đơn vị điều hành Quantum Group. Và được bảo vệ bởi công ty quan hệ công chúng mới thuê của Quantum là Kekst & Company, ông đã từ chối phỏng vấn cho bài viết này. (Ông Soros và mọi thành viên khác trong công ty cũng vậy.)
Những người biết ông, bạn bè, họ hàng và đồng nghiệp trong ngành quản lý quỹ, đều nói ông luôn tránh sự chú ý của truyền thông, trung thành với Soros và đam mê đầu tư đến quên mình.
Tốt nghiệp loại xuất sắc ngành Kinh tế học và Ngôn ngữ Anh từ Đại học Bowdoin ở Maine, chàng trai cao gầy đến từ Philadelphia này đã được bổ nhiệm làm trưởng bộ phận nghiên cứu cổ phiếu tại Ngân hàng Quốc gia Pittsburgh khi mới 25 tuổi. Khi một lãnh đạo công ty chứng khoán trả 10,000 USD mỗi tháng chỉ để có cơ hội trò chuyện về đầu tư với ông, Druckenmiller đã quyết định thành lập công ty quản lý quỹ riêng là Duquesne Capital vào năm 1981.
"Thành tích ấn tượng trong 5 năm đầu tiên của Druckenmiller đã lọt vào tầm ngắm của Howard Stein - Giám đốc điều hành Quỹ Dreyfus. Không lâu sau đó, "thiên tài" 32 tuổi này đã phải di chuyển liên tục giữa New York và Pittsburgh để làm việc. Nhận thấy tài năng đặc biệt của Druckenmiller, ông Stein đã phát triển tổng cộng 7 quỹ đầu tư, mỗi quỹ đều áp dụng những biến thể khác nhau từ chiến lược giao dịch độc đáo của Druckenmiller. Cuối cùng, vào mùa thu năm 1988, George Soros đã thành công trong việc mời được tài năng trẻ này về công ty của mình.
Tuy vậy, khởi đầu của cặp bài trùng này không hề suôn sẻ. Soros liên tục chất vấn các quyết định của người đồng nghiệp trẻ tuổi, và hai người từng xảy ra xung đột về việc bán đi số trái phiếu mà Druckenmiller muốn giữ lại. Trong cuốn sách "The New Market Wizards" (Phù thủy Sàn Chứng khoán) của Jack D. Schwager, Druckenmiller chia sẻ rằng ông chỉ thực sự nắm quyền kiểm soát sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ ở Đông Âu và Liên Xô. Sự kiện này đã cho phép Soros tập trung hơn vào hoạt động từ thiện tại quê hương Hungary và các nước trong khu vực.
Nhưng sự chuyển giao này hầu như không làm thay đổi phương pháp đầu tư của Quantum. Giống như Soros, Druckenmiller tập trung vào các vấn đề “vĩ mô” - bức tranh tổng thể. Trong cách nhìn của ông, hiệu quả hoạt động của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp ít quan trọng hơn so với các quyết định của Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed). Và khi Chiến tranh Vùng Vịnh nổ ra vào tháng 1/1991, ông đã chuyển hướng các khoản đầu tư tại Mỹ, từ vị thế bán sang mua.
Druckenmiller nổi tiếng là nhà đầu tư kỷ luật nhưng cũng rất linh hoạt, thoải mái với cả nghiệp vụ bán khống lẫn mua chứng khoán, đồng thời sẵn sàng vay mượn để đầu tư.
Ông Druckenmiller cũng thiên về phân tích kỹ thuật hơn phân tích cơ bản. Nghĩa là ông tập trung vào các yếu tố thị trường như xu hướng giá và khối lượng thay vì doanh thu, lợi nhuận từng công ty.
Chẳng hạn, ông dự đoán được vụ sụp đổ vào tháng 10/1987 khi nhận thấy đà tăng trước đó chỉ do một vài công ty mạnh dẫn dắt, trong khi đa số yếu ớt và sắp lao dốc; không may cho ông là khi thị trường bắt đầu giảm ngay trước vụ sụp đổ, ông lại mua vào - đó là lần canh thời điểm tệ nhất trong sự nghiệp của ông.
Vài năm sau đó, bộ đôi Soros-Druckenmiller đã tạo nên danh tiếng vang dội với thương vụ bán khống đồng Bảng Anh. Vào thời điểm đó, mặc dù Chính phủ Anh quyết tâm hỗ trợ, đồng Bảng vẫn không ngừng suy yếu. Vào tháng 8/1992, Druckenmiller xây dựng vị thế bán khống Bảng Anh và Lira Italy, đồng thời mua đồng Mark Đức. Chiến lược này dựa trên nhận định rằng nền kinh tế Anh và Italy quá yếu để duy trì tỷ giá so với đồng Mark. Ông còn mở rộng chiến lược bằng cách mua cổ phiếu Anh - đặt cược vào việc lãi suất sẽ phải giảm để kích thích kinh tế, trong khi bán cổ phiếu Đức và Pháp do dự đoán các nước này sẽ không có đợt giảm lãi suất tương tự, trong khi giá cả lại tăng tương đối so với Anh (điều này sẽ bất lợi cho doanh nghiệp). Tương tự, ông mua trái phiếu Pháp và Đức vì chúng sẽ hấp dẫn hơn cổ phiếu.
Vai trò của Soros trong chiến lược đầu tư này? Ông ủng hộ chiến lược này và thực tế còn thúc đẩy Druckenmiller đặt cược mạnh tay hơn, nhanh hơn.
Đến cuối năm 1992, quỹ Quantum quản lý khối tài sản trị giá 3.7 tỷ USD và nhờ sử dụng đòn bẩy đã xây dựng danh mục đầu tư tập trung vào ngoại tệ cùng các khoản thu nhập cố định như trái phiếu Chính phủ, tổng giá trị lên đến 30 tỷ USD.
Quantum phát triển nhanh đến mức 4 quỹ mới - Quota, Quasar International, Quantum Emerging Growth và Quantum Realty - đã được tách ra từ quỹ gốc trong 2 năm qua. Tổng cộng 5 quỹ nắm giữ danh mục hơn 50 tỷ USD vào đầu năm. Ông Druckenmiller trực tiếp điều hành quỹ Quantum gốc và giám sát các quỹ khác của Soros.
“Ông ấy là một bậc thầy thực thụ”, James Marquez - cựu quản lý danh mục tại Quỹ Quantum đầu thập niên 1980, hiện điều hành công ty quản lý tiền tệ riêng, nhận xét.
Không phải mọi việc đều diễn ra suôn sẻ. Tháng 1/1992, một nhà quản lý danh mục đầu tư bên ngoài tại Quỹ Quantum đã trở thành bị đơn trong một trong những vụ án giao dịch nội gián lớn nhất. Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch đã đưa ra cáo buộc rằng Purnendu Chatterjee - một người quản lý quỹ - đã tiết lộ thông tin cho anh rể và một người bạn của anh ta, giúp họ thu lợi từ thương vụ thâu tóm Công ty Foxboro, nơi Quantum nắm giữ cổ phần lớn và Chatterjee có một ghế trong hội đồng quản trị. Ba bị cáo đã chi 2.1 triệu USD để dàn xếp vụ việc với Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch đổi lại họ sẽ không thừa nhận hay phủ nhận tội.
Dù thành tích đầu tư đáng nể, phong cách làm việc của ông Druckenmiller không phải lúc nào cũng được yêu thích. E. Lee Hennessee, chuyên gia tư vấn quỹ phòng hộ tại Shearson, từng có cơ hội làm việc với Druckenmiller khi ông đến New York. Bà kể rằng phong thái khô khan của ông từng khiến một nhà quản lý đầu tư từ một trường đại học thuộc nhóm Ivy League cảm thấy thất vọng sau khi bà giới thiệu họ với nhau. “Stanley là người nghiêm túc, sắc sảo. Ông ấy phân tích mọi thứ rất nhanh, đôi khi không nhận ra mình bỏ người khác lại phía sau. Khi ông ấy đã nói xong điều mình cần nói, thế là xong”.
Dù ở nơi làm việc hay trong cuộc sống riêng tư, ông ít khi hứng thú với những cuộc trò chuyện vặt hoặc tiết lộ nhiều về bản thân mình. “Rất khó để đoán biết ông ấy”, bà Hennessee nhận định.
Druckenmiller duy trì lối sống giản dị giữa những xa hoa tại căn penthouse trên phố 72 gần Park Avenue và căn biệt thự cuối tuần ở Southampton cùng vợ (bà Fiona Biggs – nhà quản lý quỹ Dreyfus và là cháu gái của Barton Biggs, Giám đốc điều hành của Morgan Stanley) cùng ba con gái. Ông tập gym tại căn hộ, chạy bộ ở Southampton và thường lên giường lúc 8h30 tối cuối tuần.
Trong giới tài chính, ông thường xuyên giao lưu với những nhân vật có tầm ảnh hưởng. Ông từng tham gia săn bắn tại trang viên Maryland của Paul Tudor Jones - người điều hành Tudor Investment, hay thường xuyên gặp gỡ Stanley Shopkorn - cựu Phó Chủ tịch tại Salomon. Ngoài ra, ông còn được biết đến là một người chơi golf xuất sắc.
Ngay cả người hâm mộ Druckenmiller cũng cho rằng ông khó duy trì thành tích phi thường của mình. Barton Biggs nhận định thị trường rồi sẽ xuất hiện đầy người bắt chước phong cách của Druckenmiller. Ông Marquez nói thêm: “Họ gần như quá lớn. Thật khó để xoay chuyển 7 tỷ USD. Quá khó để duy trì mức hiệu suất đó.”
Ông Marquez gợi ý rằng Quantum chỉ thực sự không bị “gò bó” ở thị trường giao dịch tiền tệ - nơi có khối lượng giao dịch 1,000 tỷ USD mỗi ngày – vượt xa tất cả thị trường khác.
Và ngay cả trong trường hợp đó, việc tìm được hướng đi đúng đắn vẫn khó khăn. Cuộc chơi không dành cho đối tượng yếu thế.
Thật không may cho nước Mỹ khi các quỹ do Stanley Druckenmiller quản lý luôn đóng cửa với công dân hoặc cư dân Mỹ. Lý do chính là Ban quản lý muốn có hơn 99 nhà đầu tư, đó là giới hạn tối đa luật chứng khoán Mỹ cho phép với “quỹ phòng hộ”. Luật giới hạn số nhà đầu tư để hạn chế rủi ro.
Các quỹ phòng hộ thường đăng ký bên ngoài nước Mỹ để hoạt động linh hoạt hơn so với chịu sự quản lý của Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch Mỹ (SEC).
Điều này đồng nghĩa với mức độ rủi ro cao hơn rất nhiều. Các quỹ phòng hộ có thể thực hiện giao dịch bán khống chứng khoán với tần suất tương đương mua vào. Tuy nhiên, giao dịch bán khống tiềm ẩn rủi ro thua lỗ lớn hơn nhiều so với cơ hội sinh lời. Các vị thế mua vào hoặc một số chiến lược đối ứng khác có thể giúp bảo vệ danh mục đầu tư - đây chính là nguồn gốc của thuật ngữ “phòng hộ”. Tuy vậy, trong khi các vị thế bán khống đang tăng giá thì các vị thế mua vào cũng có thể đồng thời giảm giá.
Đầu tư vào hợp đồng tương lai, quyền chọn tiền tệ, hàng hóa và cổ phiếu sẽ phải đối mặt với nhiều biến động khó lường - điều không có ở cổ phiếu hoặc trái phiếu thuần túy. Cuối cùng, các quỹ có thể sử dụng đòn bẩy lên đến mức gấp 20 lần tài sản của họ. Nhìn chung, cuộc chơi này không dành cho tay mơ.
Rất ít quỹ đầu tư có thể thành công như Tập đoàn Quantum, và những quỹ đạt được thành công tương tự không thể chỉ đơn thuần tạo ra lợi nhuận 'tốt' cho nhà đầu tư để kiếm tiền. Thông thường, các quỹ này thu phí quản lý 1% và lấy từ 15% đến 20% trên lợi nhuận thu được. Đối với những quỹ tốt nhất, họ thậm chí có thể áp dụng mức phí cao hơn lên tới 30%.
Ba thập kỷ sau câu chuyện về "môn đệ" vĩ đại của Soros được kể lại, Stanley Druckenmiller vẫn là một hình mẫu về sự kết hợp hoàn hảo giữa kỷ luật và linh hoạt trong đầu tư. Phong cách đầu tư độc đáo cùng khả năng nhìn xa trông rộng của Druckenmiller không chỉ để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử tài chính mà còn truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ nhà đầu tư sau này.
Thiết kế: TM
- 09:00 01/03/2025