Làm quan Hà Trung…
Làm quan Hà Trung…
Vùng đất nghèo Quảng Trị từ lâu còn nổi tiếng về đất học. Ngày trước, mục đích học hành đỗ đạt để làm quan, trong đó có dòng họ nối tiếp nhau nhiều đời theo nghề khoa bảng. Nổi tiếng nhất là dòng họ Trần Đình ở làng Hà Trung, xã Gio Châu, huyện Gio Linh. Trong bài vè đúc kết về các “đặc sản” ở các làng quê Quảng Trị đã có câu: “Làm quan Hà Trung/ Thầy cung Nhĩ Thượng”.
Làng Hà Trung có ba dòng họ: Trần Đình, Trần Ngọc và họ Nguyễn nhưng họ Trần Đình là đông nhất, chiếm trên nửa làng. Gia phả dòng họ Trần Đình ghi rõ: Thủy tổ quý công khai canh chi thần là ngài Trần Văn Đông. Ông Đông gốc người làng Hà Mai, tổng Du Tường, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1470, ông Trần Văn Đông theo vua Lê Thánh Tông đi chinh phục giặc Chiêm Thành, rồi vâng lệnh vua, lập quê mới là làng Hà Trung (đặt tên làng ghi nhớ nguồn gốc ở Thanh Hóa), tổng An Xá, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Tính đến nay, dòng họ Trần Đình đã có lịch sử phát triển trên 500 năm tại Quảng Trị.
![]() Làng Hà Trung
|
Về chuyện “phát” đường quan lại của dòng họ, gia phả của dòng họ Trần Đình có ghi lại một giai thoại như sau: Vào đời thứ 2 của họ Trần Đình là một đôi vợ chồng già, sống nghèo thanh đạm. Một hôm có hai thầy địa lý đi qua, lỡ đường nên xin ngủ trọ một đêm. Hai vợ chồng già tuy nghèo nhưng quý khách, tiếp đãi rất nồng hậu. Sáng ra, hai thầy trả tiền nhưng đôi vợ chồng già không nhận. Hai thầy ái ngại, làm bộ “quên” một ít vàng nén. Khi hai thầy đi khỏi, thấy có vàng bị bỏ quên, hai vợ chồng già lật đật chạy theo, trả lại vàng. Hai thầy cảm động, quyết định chỉ cho hai vợ chồng một huyệt mộ và nói: “Nếu dịch lên một huyệt thì làm vua một đời, dịch xuống một huyệt làm quan nhiều đời”. Hai vợ chồng xin dịch xuống một huyệt để làm quan được nhiều đời. Khi an táng, điều kiện để hạ huyệt: bao giờ có người đội nón bằng đồng đi ngang qua và cá lên ngọn tre thì mới là giờ hạ huyệt! Lúc ông bà chết, con cháu quàn xác lại và cứ chờ. Tình cờ trời mưa. Một người đi mượn cái nồi đồng về, vì mưa nên chụp nồi đồng lên đầu. Lại có đứa bé đi câu cá về, treo con cá đầu cần câu bằng tre. Như vậy, điều kiện hạ huyệt đã được ứng nghiệm.
Thủy tổ của dòng họ Trần Đình ở làng Hà Trung xuất thân là một quan lại triều Lê. Các đời tiếp theo đều nối nghiệp quan. Nổi tiếng nhất trong dòng họ Trần Đình là ông Trần Đình Ân, thuộc đời thứ 6. Trần Đình Ân sinh năm 1626, mất năm 1706, làm quan đến chức Tham chánh chính đoán sự, tước Đông Triều hầu, theo phò bốn đời Chúa Nguyễn Đàng Trong. Khi từ quan về trí sỹ, Trần Đình Ân được chúa Nguyễn Phúc Chu cấp ruộng đất, người hầu và còn được Chúa tặng một bài thơ ca ngợi công lao. Bài thơ có những câu: “Suốt đời giữ thiện tính tinh nhuần/ Giúp việc bốn triều bậc lão nhân/ Sự nghiệp đã thành từ mũ ấn/ Đạo tâm thường hiện lánh hồng trần/ Phơ phơ tóc bạc như Thương hạo/ Phơi phới lòng tiên tựa Hán thần…”.
Theo gia phả thì ngài Trần Đình Ân có hai con trai là Trần Đình Khánh và Trần Đình Thuận cũng đều rất mẫn tiệp và giữ các vị trí quan trọng trong triều đình. Sách: “Đại Nam nhất thống chí” viết: “Con trưởng là Trần Đình Khánh được tập ấm bổ văn chức ở Chính dinh, Khánh giỏi về từ hàn, đời Hiển Tông, thăng Cai bạ Quảng Nam, rất có tiếng về chính sự, lúc chết được tặng Thái thường Tự khanh. Con thứ là Đình Thuận làm Cai bạ phó đoán sự” (1). Con của ông Trần Đình Khánh là Trần Đình Hy làm quan tới chức Bộ Hộ kiêm Bộ Hình. Con ông Trần Đình Hy là Trần Đình Hiến cũng giữ chức Ký lục Quảng Nam. Một người trong dòng họ Trần Đình cũng làm quan lớn và nổi tiếng là ông Trần Đình Túc, đời thứ 11. Ông Túc đỗ Cử nhân khoa thi Nhâm Dần (1842) đời Thiệu Trị, được vào chân Tri huyện, lần hồi được thăng lên Quản đạo Phú Yên. Đời Tự Đức, ông được tặng hàm Hồng lô tự khanh, trải qua các chức vụ Tán trương quân thứ ở Biên Hòa; Biện lý Bộ Hình (Thứ trưởng coi về hình pháp), Dinh điền sứ Thừa Thiên - Quảng Trị (coi về khai hoang), rồi gia phong Thị lang Bộ Hộ (Thứ trưởng thứ hai coi việc tài chính). Trần Đình Túc nhiều lần được triều đình cử đi sứ. Về cuối đời, ông được phong hàm Khâm sai đại thần, tước Hiệp tá đại học sỹ (hàm tòng nhất phẩm). Không chỉ là nhà ngoại giao, nhà kinh tế, Trần Đình Túc còn là một nhà trước thuật. Ông có sáng tác thơ văn, tập hợp thành “Tiêu Sơn toàn tập” và được xếp vào hàng các tác gia Việt Nam.
![]() Ông Trần Đình Túc, đời thứ 11 dòng họ Trần Đình
|
Ông Trần Đình Phác làm quan đến chức Thượng thư Bộ Hộ. Ông chính là người đứng ra cùng dân làng tiến hành xây dựng đình Hà Trung bề thế, vững chắc và còn là một công trình nghệ thuật có giá trị. Ông Trần Đình Khuyến, đời thứ 13 là người cuối cùng của dòng họ Trần Đình “phát” về đường quan lại. Ông sinh năm 1885, học trường Hậu Bổ (Huế), làm quan đến chức Quản đạo Ninh Thuận và Tri phủ ở các phủ Bồng Sơn (Bình Định), Anh Sơn (Nghệ An). Tính ra dòng họ Trần Đình ở Hà Trung đã có 13 đời làm quan.
Theo giai thoại, cùng với việc chỉ huyệt mộ, điều kiện hạ huyệt khi táng thì hai thầy địa lý còn cho câu sấm: “Bao giờ núi nọ hết cây/ Sông kia hết chảy, họ này hết quan/ Bao giờ rắn sắt bò ngang/ Tây kia kéo lại, hết quan họ này”. Về câu sấm truyền này, dòng họ Trần Đình cho rằng rất linh nghiệm. Một dòng họ suốt 13 đời làm quan nhưng đến giữa thế kỷ XX thì không có ai “phát” về đường quan lộc. Khi đó, ở Hà Trung núi đồi bị chặt phá trọc, dòng nước mạch ngầm từ hồ Phương Sen cũng cạn dần, thực dân Pháp đã xây dựng đường tàu hỏa qua giữa làng, triều đình phong kiến nhà Nguyễn cũng chấm dứt…
Trong các thế hệ làm quan của dòng họ Trần Đình, người còn để lại nhiều câu chuyện làm gương cho hậu thế là ngài Trần Đình Ân, đời thứ 6. Chuyện kể rằng, năm 1703, khi ông từ quan về quê, con cháu ruột của ông có trên 10 người đi theo phò Chúa Nguyễn. Thế nhưng, ông không chọn người con, cháu nào của mình để tiến Chúa mà ông chọn người con rể là Nguyễn Khoa Chiêm, một người tài đức vẹn toàn, từ tước vị Bảng Trung Tử được ông nhắc lên Bảng Trung Hầu, thay ông giữ chức đầu triều tham chánh chính đoán sự. Đó là một việc làm trong sáng, tôn vinh người tài. Từ mối thâm giao này, hai dòng họ Trần Đình (Quảng Trị) và Nguyễn Khoa ở Vĩ Dạ (Huế) hàng năm vẫn duy trì tình cảm, đi lại thăm hỏi nhau. Chuyện nữa, danh thần Trần Đình Ân không chỉ được thờ phụng ở làng Hà Trung, nơi chôn nhau cắt rốn mà ngài còn được làng Mai Xá Thị trang trọng thờ trong chốn đình trung. Điều này khiến nhiều người ngạc nhiên. Hỏi ra mới biết, khi ngài làm quan, nhân một vụ kiện đã xử công bằng cho làng này. Dân làng nhớ ơn nên nhắc nhau đời này sang đời khác luôn kính cẩn hương khói. Đúng như lời dân gian tình nghĩa mà riết róng: “Thương dân, dân lập đền thờ/ Hại dân, dân đái ngập mồ cho coi” (Ca dao).
(Rút từ sách: “Miền Ô CHÂU”, chuẩn bị xuất bản)
………………………………………………..
(1) Đại Nam nhất thống chí, tập 1. Quốc sử quán triều Nguyễn. NXB Thuận Hóa 2024, tr.159.
- 08:00 22/03/2025